Chụp cộng hưởng từ là gì? Các công bố khoa học về Chụp cộng hưởng từ
"Chụp" có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau, từ chụp ảnh cho đến chụp súng. "Cộng hưởng" có thể liên quan đến hiện tượng cộng hưởng trong vật lý hay cảm xúc cộng...
"Chụp" có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau, từ chụp ảnh cho đến chụp súng. "Cộng hưởng" có thể liên quan đến hiện tượng cộng hưởng trong vật lý hay cảm xúc cộng hưởng trong tâm trí. Nếu bạn có thể cung cấp thông tin chi tiết hơn, tôi sẽ có thể giúp bạn hiểu rõ hơn.
Xin lỗi, thông tin của bạn vẫn chưa đủ để tôi hiểu rõ vấn đề. Bạn có thể mô tả chi tiết hơn về "chụp cộng hưởng từ" mà bạn đang muốn nói đến không? Đó có thể là một thuật ngữ trong một lĩnh vực cụ thể nào đó? Hoặc có thể là một cụm từ có ý nghĩa riêng trong ngữ cảnh cụ thể nào đó? Bất kỳ thông tin thêm nào bạn có thể cung cấp sẽ giúp tôi hiểu rõ hơn và cung cấp sự trợ giúp tốt nhất có thể.
Dựa trên thông tin mà bạn cung cấp, có thể bạn đang nói về khái niệm "chụp cộng hưởng từ" trong lĩnh vực vật lý. Trong vật lý, cộng hưởng từ (resonance) là hiện tượng khi một hệ thống dao động với một biên độ tối đa ở một tần số cụ thể. Khi một hệ thống đưa vào một tần số cộng hưởng, nó sẽ dao động với biên độ lớn hơn và tạo ra hiện tượng cộng hưởng. Điều này có thể áp dụng trong nhiều lĩnh vực, từ cơ học, điện tử đến sóng học.
Nếu bạn muốn biết thêm về vấn đề này hoặc muốn áp dụng vào một lĩnh vực cụ thể, xin vui lòng cung cấp thêm thông tin để tôi có thể cung cấp sự giúp đỡ cụ thể hơn.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chụp cộng hưởng từ":
Mô hình biến đổi tuyến tính của chức năng chụp cộng hưởng từ (fMRI) giả thuyết rằng phản ứng fMRI tỷ lệ thuận với hoạt động thần kinh trung bình cục bộ được tính trung bình trong một khoảng thời gian. Công trình này báo cáo kết quả từ ba thử nghiệm thực nghiệm ủng hộ giả thuyết này. Đầu tiên, phản ứng fMRI trong vỏ thị giác chính của người (V1) phụ thuộc riêng biệt vào thời điểm kích thích và độ tương phản của kích thích. Thứ hai, phản ứng với các kích thích có thời gian dài có thể được dự đoán từ phản ứng với các kích thích có thời gian ngắn hơn. Thứ ba, nhiễu trong dữ liệu fMRI độc lập với độ tương phản của kích thích và khoảng thời gian tạm thời. Mặc dù các thử nghiệm này không thể chứng minh tính chính xác của mô hình biến đổi tuyến tính, nhưng chúng có thể đã được sử dụng để bác bỏ mô hình. Bởi vì mô hình biến đổi tuyến tính phù hợp với dữ liệu của chúng tôi, chúng tôi đã tiến hành ước lượng hàm phản ứng xung fMRI theo thời gian và hàm phản ứng theo độ tương phản (có thể là thần kinh) dưới đây của V1 của người.
Để đánh giá tác động của việc giảm nhiễu động học lên chụp cộng hưởng từ khuếch tán (DWI-MRI) của gan, chúng tôi đã so sánh DWI bù vận tốc (VC-DWI) và DWI bù vận tốc kết hợp với gradient tứ diện (t-VC-DWI) với DWI thông thường (c-DWI) trong việc đánh giá hệ số khuếch tán rõ ràng (ADC) của gan.
Trên 12 tình nguyện viên khỏe mạnh, gan đã được quét bằng các chuỗi c-DWI, VC-DWI và t-VC-DWI. Tỉ lệ tín hiệu trên nhiễu (SNR) và ADC của mô gan được đo và so sánh giữa các chuỗi.
Chất lượng hình ảnh được đánh giá cao hơn khi sử dụng t-VC-DWI so với các phương pháp khác. SNR của t-VC-DWI cao hơn đáng kể so với VC-DWI (
Sử dụng chuỗi t-VC-DWI cho phép chúng tôi điều chỉnh ADC của gan để loại bỏ sự tăng giả do chuyển động tim, với SNR được bảo tồn. J. Magn. Reson. Imaging 2013;37:172–178. © 2012 Wiley Periodicals, Inc.
Trong hai thập kỷ qua, dịch tễ học của bệnh gan mãn tính đã thay đổi với sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu song song với sự ra đời của các phương pháp điều trị khỏi bệnh viêm gan C. Những phát triển gần đây đã cung cấp các công cụ mới cho chẩn đoán và theo dõi các bệnh gan dựa trên siêu âm (US), chụp cắt lớp vi tính (CT) và cộng hưởng từ (MRI), áp dụng để đánh giá tình trạng nhiễm mỡ, xơ hóa và tổn thương khu trú. Bài tổng quan này nhằm thảo luận về những phương pháp mới nổi trong hình ảnh gan định tính và định lượng, tập trung vào những phương pháp dự kiến sẽ được áp dụng trong thực hành lâm sàng trong 5 đến 10 năm tới. Trong khi radiomics là một công cụ mới nổi cho nhiều ứng dụng này, các kỹ thuật chuyên biệt đã được nghiên cứu cho siêu âm (tham số suy giảm kiểm soát, hệ số phản xạ, các phương pháp đàn hồi như đàn hồi sóng cắt điểm [pSWE] và đàn hồi tạm thời [TE], các kỹ thuật Doppler mới và siêu âm ba chiều tăng cường tương phản [3D-CEUS]), CT (năng lượng kép, đếm photon phổ, tỷ lệ thể tích ngoài tế bào, tưới máu và khối u bề mặt), và MRI (tỷ lệ mỡ trên mật độ proton [PDFF], đàn hồi [MRE], chỉ số tăng cường tương phản, tăng cường tương đối, lập bản đồ T1 trong giai đoạn gan mật, tưới máu). Đồng thời, sự ra đời của các giao thức MRI rút gọn sẽ giúp đáp ứng ngày càng nhiều yêu cầu khám bệnh trong thời đại các hạn chế về tài nguyên chăm sóc sức khỏe.
Nghiên cứu tổng hợp này nhằm so sánh độ chính xác chẩn đoán của hình ảnh cộng hưởng từ khuếch tán (DW-MRI) và chụp positron phát ra từ fluorodeoxyglucose (FDG-PET) hoặc FDG-PET/cắt lớp vi tính (CT) trong việc đánh giá và dự đoán phản ứng bệnh lý đối với liệu pháp hóa xạ trị bổ trợ trước phẫu thuật (NCRT) ở bệnh nhân ung thư trực tràng.
Một nghiên cứu tài liệu toàn diện đã được thực hiện để xác định các nghiên cứu liên quan cho tổng hợp này. Độ nhạy tổng hợp, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương tính (PPV) và giá trị tiên đoán âm tính (NPV) đã được tính toán.
Tổng cộng có 33 nghiên cứu với 1564 bệnh nhân đáp ứng tiêu chí bao gồm. Độ nhạy tổng hợp (81% [95% CI 74–86%] so với 85% [95% CI 75–91%]) và NPV (80% [95% CI 68–89%] so với 91% [95% CI 80–95%]) của FDG-PET hoặc FDG-PET/CT thấp hơn đáng kể so với DW-MRI (P < 0.05). Không có sự khác biệt nào được quan sát thấy ở độ đặc hiệu và PPV tổng hợp giữa DW-MRI và FDG-PET hoặc FDG-PET/CT. Phân tích nhóm thêm cho thấy DW-MRI có độ nhạy cao hơn khi chỉ xem xét các khối u tuyến so với các khối u có bao gồm cả khối u tuyến nhầy (92% [95% CI 83–99%] so với 76% [95% CI 63–90%], P = 0.00).
DW-MRI vượt trội hơn FDG-PET hoặc FDG-PET/CT trong việc dự đoán và đánh giá các phản ứng bệnh lý đối với liệu pháp NCRT trước phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư trực tràng. Tuy nhiên, độ đặc hiệu và PPV tương đối thấp của nó hạn chế ứng dụng trong thực hành lâm sàng, khiến nó không phù hợp để theo dõi bệnh nhân, đặc biệt là những bệnh nhân có khối u tuyến nhầy trực tràng.
Bài viết này xem xét việc áp dụng và sử dụng các công nghệ y tế tiên tiến – chụp cắt lớp vi tính (CT) và chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI) – tại các bệnh viện công phụ thuộc vào những yếu tố nào và mức độ phụ thuộc ra sao.
Từ một mẫu dữ liệu bảng cho tất cả các bệnh viện công trong dịch vụ y tế của Galicia (một tiểu vùng của Euroregion Galicia-Bắc Bồ Đào Nha) trong giai đoạn 2010–2017, chúng tôi đã nhóm các biến giải thích thành các yếu tố đầu vào (tài nguyên), đầu ra (hoạt động) và các biến xã hội-dân số. Phân tích nhân tố được sử dụng để giảm thiểu số lượng biến phân tích, phân tích phân biệt để xem xét quyết định áp dụng công nghệ, và phân tích hồi quy đa biến để điều tra việc sử dụng chúng.
Phân tích nhân tố đã xác định các động lực đối với việc áp dụng và sử dụng công nghệ y tế CT và MRI như sau: đầu vào/đầu ra của bệnh viện (Yếu tố 1); các nghiên cứu hình ảnh và việc áp dụng CT tại các bệnh viện công (Yếu tố 2); vai trò nghiên cứu/giảng dạy và công nghệ chẩn đoán và điều trị đắt tiền (lithotripsy) (Yếu tố 3); số lượng cấy ghép (Yếu tố 4); chẩn đoán/điều trị ung thư (Yếu tố 5); và phân tán địa lý khu vực phục vụ (Yếu tố 6). Giá trị Cronbach’s alpha là 0.881 cho thấy độ tin cậy của các biến nhân tố đạt yêu cầu. Về việc áp dụng các công nghệ này, Yếu tố 1 là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất, giải thích 37% phương sai và cho thấy tính nhất quán nội bộ toàn cầu tốt, trong khi Yếu tố 2 chỉ chiếm 13% phương sai. Trong phân tích phân biệt, các giá trị cho bài kiểm tra Box’s M và tương quan chuẩn hóa, chẳng hạn như lambda Wilks cho hai công nghệ cho thấy độ tin cậy và khả năng dự đoán của các phương trình phân biệt. Cuối cùng, theo phân tích hồi quy, yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến việc sử dụng CT và MRI là Yếu tố 2, tiếp theo là Yếu tố 1 và 3 trong trường hợp sử dụng CT, và Yếu tố 3 và 5 trong trường hợp sử dụng MRI.
Việc áp dụng CT và MRI tại các bệnh viện công chủ yếu được xác định bởi đầu vào và đầu ra của bệnh viện. Tuy nhiên, việc sử dụng cả hai công nghệ y tế này chủ yếu bị ảnh hưởng bởi các nghiên cứu hình ảnh truyền thống và việc áp dụng CT. Những kết quả này gợi ý rằng cả hai lựa chọn – áp dụng và sử dụng công nghệ y tế tiên tiến – có thể là những quyết định riêng biệt vì chúng có thể được đưa ra bởi những người khác nhau (cái trước bởi các nhà quản lý và nhà hoạch định chính sách và cái sau bởi các bác sĩ).
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10